Thứ Ba, 29 tháng 1, 2013

CÁCH BỆNH VIÊM GAN A LÂY LAN

CÁCH BỆNH VIEM GAN A LÂY LAN
Vi khuẩn viêm gan A được tìm thấy trong mồ hôi, nước bọt, nước tiểu, nhưng nhiều nhất vẫn làø phân của người có bệnh. Vi khuẩn viêm gan A theo thức ăn, nước uống xâm nhập vào cơ thể của chúng ta. Một trong những phương thức lây bệnh khá thông thường là tiếp xúc trực tiếp hay gián tiếp với nước bọt của bệnh nhân viem gan A trong thời kỳ ủ bệnh:
Trong thiên nhiên, vi khuẩn viêm gan A được tìm thấy khắp nơi trên thế giới, nhưng vẫn nhiều nhất ở các nước chậm tiến, kém mở mang, thiếu vệ sinh. Khi vi khuẩn viêm gan A theo thức ăn hoặc nước uống xâm nhập vào cơ thể, chúng sinh sôi nẩy nở một cách nhanh chóng trong các tế bào gan. Từ đó chúng theo ống dẫn mật xuống đường ruột và theo phân đi ra ngoài.
Nhờ vào một lớp vỏ kiên cố, vi khuẩn viêm gan A có thể sống sót trong vòng nhiều năm với nhiệt độ đông lạnh như -20 độ C. Hoặc khi bị phơi khô, vi khuẩn viêm gan A vẫn tiếp tục giữ trạng thái nguyên vẹn trong vòng nhiều tuần lễ.
Trong ao lầy các loại ốc sò có thể bị nhiễm trùng. Nếu không được nấu kỹ, chúng có thể gây ra bệnh viem gan a. Ngay cả tắm ao hoặc hồ bơi công cộng khi không đủ chất Chlorine cũng có thể là một trong những nguyên nhân bị lây bệnh viêm gan A. Khi đun sôi thức ăn (hơn 85 độ C) trong vòng 1 phút, vi khuẩn viêm gan  siêu vi A sẽ bị tiêu hủy dễ dàng.

CÁCH ĐỊNH BỆNH VIÊM GAN A

CÁCH ĐỊNH BỆNH VIEM GAN A
Thử máu vẫn là phương pháp duy nhất để định bệnh viêm gan. Trong thời gian cấp tính, kháng thể HAV- IgM sẽ tăng cao. Nếu dưới kính hiển vi điện tử, người ta có thể nhận diện được hình thù của vi khuẩn viêm gan A trong máu và phân. Các vi khuẩn này chỉ trong một thời gian ngắn sẽ bị cơ thể tiêu diệt hoàn toàn, và bệnh nhân sẽ được miễn nhiễm suốt đời. Người được miễn nhiễm (immune) bệnh viem gan A, sẽ có một số kháng thể (gọi là HAV-IgG) di chuyển khắp nơi trong cơ thể. Các kháng thể này sẽ là những “cảm tử quân” bảo vệ chúng ta trước sự xâm nhập của vi khuẩn viêm gan A.
Một khi bị hồi phục, cơ thể chúng ta sẽ có kháng thể chống lại bệnh viêm gan A gần như suốt đời.
Tuần tới chúng tôi sẽ thảo luận về cách chữa tị và chích ngừa viêm gan A. Kính mời quý vị đón đọc.
Tháng 6 vừa qua, Hội Ung Thư Việt Mỹ tổ chc họp báo, phát động cuộc vận động chống viêm gan và ung thư gan trong cộng đồng người Việt tại hải ngoại. Theo Tung Tâm Gan Á Châu tại Đại Học Stanford, ung thư gan là nguyên nhân gây tử vong vì ung thư đứng hàng thứ hai cho người Việt. Tỷ lệ viêm gan B trong cộng đồng người Việt cao hơn người Da Trắng gấp 17 đến 20 lần, tùy theo các trung tâm khác nhau. Cuộc Vận Động Chống Viêm Gan và Ung Thư Gan 2004 của Hội Ung Thư Việt Mỹ nhằm khuyến khích mọi người gốc Việt làm những việc sau: 1) thử nghiệm xem mình có mang bệnh Viêm gan B hoặc/và C hay không, 2) nếu chưa nhiễm vi khuẩn B, thì nên yêu cầu bác sĩ chích ngừa viêm gan B, 3) nếu chẳng may đã nhiễm vi khuẩn B hoặc/và C thì cần phải đến bác sĩ để xem có cần theo dõi hoặc chữa trị viêm gan, hoặc truy tầm ung gan thường xuyên hay không; đồng thời bệnh nhân nên hỏi bác sĩ về chích ngừa viêm gan siêu vi A.

AI CÓ THỂ BỊ VIEM GAN A?

AI CÓ THỂ BỊ VIEM GAN A?

Tại những nước chậm tiến khi người nông dân tiếp tục dùng phân người trong việc trồng trọt tưới rau, hoặc hệ thống cầu cống không được tẩy uếá cẩn thận, hoặc những nơi đông dân cư thiếu vệ sinh, bệnh lan tràn một cách tự do, nhanh chóng và dễ dàng.
Việt Nam và các nước láng giềng có tỷ lệ viêm gan cao nhất thế giới. Vì thế, hầu như tất cả chúng ta, nếu sinh trưởng tại quê nhà, có lẽ đều bị lây bệnh viem gan A trong quá khứ mà không hề hay biết.
Các thức ăn, nước uống, cũng như bát đũa, dao thìa tại những quầy bán rong thiếu vệ sinh có thể là nguyên nhân chính đưa đến sự lan tràn bệnh viêm gan A (và E) một cách tự do và nhanh chóng.
Tuy nhiên, ngay cả trên nước Mỹ, bệnh viêm gan A tái phát từng chu kỳ như một cơn dịch (epidemic), thông thường cứ 10 năm một lần. Gần đây nhất là vào năm 1995, trên toàn nước Mỹ đã có hơn trăm ngàn người phải chữa bệnh do “dịch viêm gan siêu vi A” mang lại trong vòng một vài tháng. Giữa những cơn “dịch” này, bệnh viêm gan A vẫn tái xuất thường xuyên, gây bệnh tật cho gần 100,000 người mỗi năm trên nước Mỹ. Bệnh lan tràn dễ dàng hơn từ nước này qua nước nọ, từ lục địa này qua lục địa kia, nhờ vào phương tiện di chuyển nhanh chóng và tối tân hiện nay.
Bản đồ sau đây cho thấy những tiểu bang Hoa Kỳ với những tỷ lệ của bệnh viêm gan A. Các tiểu bang như Arizona, Alaska, Oregon, New Mexico, Utah, Washington có tỷ lệ bệnh viêm gan A cao nhất nước Mỹ, với khoảng 30 đến 48 bệnh nhân trong 100,000 người, mỗi năm.
TRIỆU CHỨNG CỦA BỆNH VIÊM GAN A
Vi khuẩn viêm gan A chỉ gây sưng gan cấp tính (acute inflammation) chứ không tạo nên những biến chứng lâu dài, như sơ gan (fibrosis), chai gan (cirrhosis), hoặc ung thư gan, như vi khuẩn viêm gan B, C, và D.
Triệu chứng của bệnh viêm gan A có thể thay đổi tùy theo lứa tuổi của bệnh nhân khi bị lây bệnh. Càng trẻ tuổi chừng nào, bệnh càng nhẹ chừng nấy. Hơn 80% trẻ em dưới 2 tuổi, khi bị lây, thường không có bất cứ một triệu chứng nào. Ngược lại hơn 80% bệnh nhân lớn hơn 6 tuổi sẽ bị bệnh viêm gan A “hành hạ” với những triệu chứng tiêu biểu từ rất nhẹ đến rất nặng. Càng lớn tuổi chừng nào, các triệu chứng của bệnh viêm gan A càng nặng chừng nấy. Và tùy theo sức khỏe của mỗi cá nhân bệnh có thể phát triển thành một trong 5 trường hợp sau đây:
1) Viêm gan “thầm lặng” (asymptomatic)
2) Viêm gan tiêu biểu (classical hepatitis),
3) Viêm gan với vàng da mãn tính (cholestatic).
4) Viêm gan “tái phát” nhiều lần (relapsing).
5) Viêm gan “ác tính” (Fulminant hepatitis).

Hướng dieu tri benh viem gan b như thế nào?

Hỏi: Hướng  dieu tri benh viem gan b như thế nào?
Đáp:
Đã có những tiến bộ lớn  về bệnh viêm gan B  từ các nghiên cứu gần đây về diễn tiến tự nhiên của bệnh cũng như từ các thử nghiệm lâm sàng của các thuốc kháng virus. REVEAL, một nghiên cứu dài hơn một thập niên về vài ngàn bệnh nhân viêm gan virus B với kháng nguyên bề mặt (HBsAg) dương tính ở người trưởng thành Đài Loan, đã chứng minh rằng mức độ HBV DNA ban đầu ở những người mang HBsAg trong độ tuổi từ 30-65 tuổi có liên quan trực tiếp đến khả năng phát triển ung thư biểu mô tế bào gan nguyên phát và xơ gan 10 năm sau.  Các nghiên cứu khác  đã đi đến kết luận tương tự . Về vấn đề điều trị, nó đã được chứng minh rằng ức chế virus lâu dài làm giảm tỷ lệ các kết cục xấu lâm sàng , đặc biệt là ở bệnh nhân xơ hóa tiến triển . Điều  quan trọng chắc chắn cho rằng việc tiếp tục ức chế virus vẫn có lợi cho dù sự xuất hiện đề kháng làm giảm giá trị điều trị.
Những nghiên cứu diễn tiến tự nhiên và điều trị lâm sàng này đã dẫn đến xuất hiện một khái niệm đơn giản nhưng sâu sắc là "hai vấn đề song hành " của chua benh viem gan b : sự sử dụng lâu dài thuốc ức chế virus và việc tránh xuất hiện đề kháng. Nguyên lý  phù hợp là với sự ức chế virus hoàn toàn tạo nên lợi ích lâm sang tối đa, và lượng virus trong máu còn sót lại tại các thời điểm trong khi điều trị với một số thuốc chống virs bằng đường uống  đã được chứng minh làm tăng nguy cơ đề kháng với điều trị, và điều này có khả năng ảnh hưởng đến kết quả bệnh nhân . 
Các trang bị y tế điều trị phát triển đối với virus viem gan B (HBV) khiến nó ngày càng tốt để đạt được mục tiêu kép là ức chế virus lâu dài và tránh sự đề kháng trong phần lớn các bệnh nhân. Tính sẵn có hiện tại của 4 chất tương tự nucleos(t)ide, với những chất khác, cùng với interferon tiêu chuẩn và peginterferon, cung cấp cho các bác sĩ lâm sàng nhiều tùy chọn điều trị cho bệnh nhân của họ. Tuy nhiên, khoảng rộng các lựa chọn điều trị này tạo ra thách thức đối với bác sĩ lâm sang, người phải lựa chọn thuốc điều trị thích hợp điều trị cho bệnh nhân mà việc điều trị được chỉ định. Quyết định điều trị ban đầu liên quan đến sự lựa chọn giữa một chế độ interferon alfa chuẩn đã được công nhận hoặc thuốc bằng đường uống được chấp thuận. Nếu một loại thuốc uống được chọn, các câu hỏi khác theo sau, chẳng hạn như có thuốc được dùng và liệu sự kết hợp trị liệu có thể đem lại bất kỳ lợi ích bổ sung nào không.

Quyết định đối với dieu tri benh viem gan ban đầu là không tránh khỏi bị ràng buộc với câu hỏi rằng liệu điều trị có thể ngừng lại không và nếu có thì khi nào.

Câu trả lời yêu cầu việc xem xét  mục tiêu điều trị mong muốn đã đạt được không và, điều quan trọng tương đương là mục tiêu này và những lợi ích lâm sàng liên quan với nó có thể được duy trì không nếu việc điều trị được ngừng lại. Ngoài ra, quản lý bệnh nhân điều trị viêm gan B nên được coi là một quá trình động của việc đánh giá liên tục các thông số đáp ứng để đảm bảo đạt được tối ưu mục tiêu kép của ức chế virus lâu dài và tránh đề kháng. Những công bố gần đây đã cố gắng thiết lập những mốc điều trị tại một số thời điểm quan trọng trong quá trình điều trị, trong trường hợp không đạt được tiêu chuẩn đó, quyết định những thay đổi chủ động trong điều trị. Các chỉ số của đáp ứng khác nhau đối với các thuốc kháng virus khác nhau như chức năng các đặc tính: hàng rào di truyền cho đến đề kháng.
Điều này chỉ ra các câu hỏi: thuốc nào được lựa chọn, khi nào thực hiện thay đổi trong điều trị, và khi nào ngừng điều trị ở những bệnh nhân đã được lựa chọn cho điều trị HBV. Nhiều sự tranh cãi kéo dài đối với câu hỏi ở những bệnh nhân nào trong điều trị, đó là một chủ đề quan trọng được thực hiện bởi Anna SF Lok, MD, trong " thuoc dieu tri viem gan b mãn tính: Ai sẽ điều trị và Khi nào điều trị?

Chủ Nhật, 27 tháng 1, 2013

san lá gan là gì ? sán lá gan có mấy loại

Sán gan là một loài ký sinh trùng sống ký sinh ở các động vật ăn cỏ như trâu, bò, cừu, dê...

Có hai loại sán lá gan: sán lá gan lớn và sán lá gan nhỏ.
Sán lá gan được coi là động vật gây ra bệnh sán lá gan ở các loài động vật ăn cỏ tại Châu Á và Châu Phi.
Tại một số quốc gia, tỷ lệ nhiễm bệnh lên tới 80-100%.
Cơ thể sán lá gan hình lá, dẹp, dài 2 – 5 cm, màu đỏ máu. Mắt, lông bơi tiêu giảm.
Ngược lại, các giác bám phát triển. Nhờ cơ dọc, cơ vòng và cơ lưng bụng phát triển, nên sán lá gan có thể chun dãn, phồng dẹp cơ thể để chui rúc, luồn lách trong môi trường kí sinh.

  Bệnh sán gan dùng 2 giác bám chắc vào nội tạng vật chủ.


sán lá gan lớn
 
sán lá gan lớn
 
Hầu như sán lá gan  khỏe giúp miệng hút chất dinh dưỡng từ môi trường kí sinh đưa vào 2 nhánh ruột phân nhiều nhánh nhỏ để vừa tiêu hóa vừa dẫn chất dinh dưỡng nuôi cơ thể. Sán lá gan chưa có hậu môn. Sán lá gan lưỡng tính.
Cơ quan sinh dục gồm :
cơ quan sinh dục đực và cơ quan sinh dục cái với tuyến noãn hoàng.
Phần lớn chúng có cấu tạo dạng ống phân nhánh và phát triển chằng chịt.
Sán lá gan đẻ nhiều trứng (khoảng 4 000 trứng mỗi ngày).
Trứng gặp nước nở thành ấu trùng có lông bơi. Ấu trùng chui vào sống kí sinh trong ốc ruộng, sinh sản cho niều ấu trùng có đuôi.
Ấu trùng có đuôi rời khỏi ốc bám vào cây cỏ, bèo và cây thủy sinh, rụng đuôi, kết vỏ cứng, trở thành kén sán. Nếu trâu bò ăn phải cây cỏ có kén sán, sẽ bị nhiễm sán lá gan.
Sau khi sán lá gan lớn xâm nhập vào đường mật cùng với các tổn thương cơ học, các độc tố sẽ làm cho thành ống mật dày lên gây tắc mật, đường mật giãn, tổ chức gan tổn thương thoái hóa, dẫn đến xơ gan... và bệnh rất dễ nhầm với các bệnh lý khác về đường mật bởi vậy một số trường hợp khó thì chẩn đoán được thiết lập trong quá trình mở bụng thăm dò hoặc phẫu thuật và đặc biệt vai trò của chụp mật tụy ngược dòng (ERCP) là một công cụ hỗ trợ rất nhiều trong chẩn đoán cũng như can thiệp điều trị”.

Thứ Sáu, 25 tháng 1, 2013

Men gan và tầm quan trọng của men gan


Men gan đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong cuộc sống của mỗi con người, nó nằm trong tế bào gan và tham gia vào quá trình chuyển hóa quan trọng các chất trong cơ thể. Vì vậy, khi men gan tăng cao thì nên gặp BS chuyên khoa để sớm được theo dõi, xét nghiệm và điều trị kịp thời.
Bệnh men gan cao, men gan tăng, gan thô, bờ gan không đều, xơ gan có nhiều nguyên nhân dẫn tới như viêm gan siêu vi trùng , chất kích thích rượu bia, do độc tố phá hủy tế bào gan, do sán gan, do tác động của các bệnh suy giảm miễn dịch, các bệnh nan y, ung thư di căn...

Có nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến việc men gan tăng cao nhưng trong đó viem gan là nguyên nhân chính.

Nồng độ của men gan tăng thường tỷ lệ thuận với mức độ viêm nhiễm của gan.

Tuy nhiên đó mới là những gợi ý thông thường nhất bởi trong thực tế có những trường hợp viêm gan rất nặng nhưng nồng độ men gan trong máu tăng rất ít. Trong một số trường hợp khác việc gia tăng nồng độ men gan lại không liên quan gì đến gan. Tuy vậy nói một cách chung nhất thì sự thay đổi men gan là những dấu hiệu hữu ích trong chẩn đoán bệnh. Một số nguyên nhân hay gặp làm tăng nồng độ men gan bao gồm những nguyên nhân tại gan và nguyên nhân ngoài gan như:

- Viêm gan cấp do bất kể nguyên nhân gì đều làm men gan tăng đặc biệt là tăng rất cao, gấp 7-8 lần trở lên.

- Viêm gan mạn tiên triển, viem gan a dẫn đến xơ gan do rượu, chất độc, thiểu dưỡng, ung thư gan.

- Tắc đường mật do giun, sỏi; viêm tụy, tắc ruột, viêm dạ dày cấp… cũng làm tăng men gan nhưng mức độ tăng không nhiều như trong viêm gan.

- Các bệnh truyễn nhiễm như sốt rét, sởi, sốt xuất huyết, nhiễm trùng máu... trong giai đoạn toàn phát cũng làm tăng men gan.

- Ngoài ra còn rất nhiều bệnh mạn tính khác hay do điều trị thuốc, chế độ ăn uống không điều độ, uống nhiều bia rượu cũng làm thay đổi men gan so với bình thường.

Khi đã biết mình bị tăng men gan, bạn nên giữ gìn sức khoẻ, tránh làm việc quá sức và bước kế tiếp là phải đi khám bác sĩ chuyên khoa về bệnh gan mật để được xác định rõ bệnh và điều trị kịp thời, tránh được sớm những biến chứng, đặc biệt là bệnh viêm gan siêu vi B.

Khi phát hiện thấy mem gan tăng cao thì cần phải theo dõi thường xuyên xem số lượng có thay đổi không và cũng nên làm siêu âm định lượng gan để biết được tình trạng của gan, ống dẫn mật. Trong trường hợp phát hiện tình trạng GGT tăng cao thì điều cần thiết là phải ngưng ngay việc uống rượu, bia và các loại nước uống có chất cồn, không hút thuốc lá, nếu xảy ra ở những người có tình trạng thừa cân béo phì thì nên kiêng cữ các thức ăn nhiều dầu mỡ, chiên xào, nên dùng chế độ ăn bổ dưỡng nhiều chất đạm. Trong trường hợp cần thiết phải dùng thuốc để điều trị một số bệnh lý khác thì cần phải báo cho bác sĩ biết mình đang có tình trạng tăng men gan để tránh dùng những thuốc có hại cho gan. Bạn cần chú ý rượu là thức uống làm gan nhiễm độc (khi uống rượu, gan phải làm việc nhiều hơn để thải chất độc).

Khi biết mình bị men gan tăng cao hơn bình thường cần chú ý bảo vệ sức khỏe, trước tiên cần ngừng uống rượu hoặc bỏ hẳn rượu và rất cần đi khám bệnh. Khi men gan tăng, bác sĩ không chỉ dựa vào chỉ số men gan trong máu tăng mà còn dựa vào nhiều yếu tố khác và các xét nghiệm cận lâm sàng khác mới hy vong kết luận được nguyên nhân gây tăng men gan như siêu âm gan, siêu âm hệ thống dẫn mật, tụy tạng cũng như xem xét một số bộ phận khác.
Vậy nên khi men gan tăng cao lên đến gặp bác sĩ ngay nhé bạn

Thứ Hai, 14 tháng 1, 2013

dấu hiệu của bệnh gan là gì

Giai đoạn sớm (tiềm ẩn):
Các triệu chứng của bệnh rất nghèo nàn. Người bệnh chỉ thấy hơi đau ở hạ sườn phải, bụng trướng nhẹ, xuất hiện sự giãn các vi mạch ở cổ, mặt... Nhiều trường hợp không có các triệu chứng lâm sàng, người bệnh vẫn lao động, học tập bình thường. Giai đoạn này có thể chỉ vài tuần, có khi kéo dài vài tháng, thậm chí vài năm. Vì không có biểu hiện rõ rệt nên người bệnh chủ quan, không đi khám, không có chế độ ăn uống sinh hoạt hợp lý. Nhiều người vẫn dùng rượu bia, thuốc lá, sử dụng những chất không có lợi cho gan... làm cho bệnh càng có cơ hội bùng phát mạnh ở giai đoạn tiếp theo.

Gan là cơ quan nội tạng lớn nhất trong cơ thể, và cũng là một trong các cơ quan quan trọng nhất. Do đó việc nhận biết các dấu hiệu của bệnh gan rất quan trọng. Những dấu hiệu của bệnh gan có thể mang đến những bệnh lý về gan rất nguy hiểm như men gan, viêm gan, bệnh gan to....Một số triệu chứng và dấu hiệu nhận biết khi mắc bệnh gan là:
- Bệnh vàng da: Da chuyển sang màu vàng và mắt trắng do nồng độ bilirubin bất thường trong máu.
- Ngứa ngáy.
- Gan to, gây “cảm giác no”.
- Xuất huyết thực quản và dạ dày.
- Tích nước/dịch lỏng ở khoang bụng.
- Bệnh não-gan: chất độc ở máu dẫn tới suy giảm chức năng của não.
- Hoạt động gan yếu.
Thay đổi cân nặng bất thường: trọng lượng cơ thể tăng hoặc giảm quá 5% trong vòng 2 tháng.
Đau bụng. Các rối loạn giấc ngủ, tâm thần và hôn mê xuất hiện ở bệnh gan nghiêm trọng.
Các hậu quả này là do sự ứ đọng các chất độc trong cơ thể gây tổn thương chức năng của não. Mệt mỏi hoặc giảm khả năng chịu đựng. Đây là một số bieu hien benh gan chúng ta cần biết để phòn tránh Mất sự ham muốn tình dục hay khả năng tình dục.
Chế độ ăn uống thay đổi.
Người bị gan sẽ cảm thấy kém ăn dẫn tới giảm cân, rối loạn chức năng gan, thiếu máu và hay có cảm giác buồn nôn
Màu sắc và hình dạng móng tay cũng có thể chỉ ra bạn có mắc bệnh gan hay không. Nếu móng tay cong, màu trắng có nghĩa là bạn có nguy cơ mắc bệnh gan.

 
dấu hiệu của bệnh gan
Chứng khát nước thường xuyên và thường xuyên đi tiểu cũng xuất hiện ở người bị gan
Người bị gan thường cảm thấy đau đầu, chóng mặt, co thắt, trầm cảm dễ cáu gắt.
Những dấu hiệu trên là những dấu hiệu rất dễ nhận biết bên ngoài và bằng mắt thường. Hãy thường xuyên theo dõi cơ thể mình và những người xung quanh. Nếu bạn gặp những triệu chứng trên, hãy đi khám để bác sĩ kiểm tra chắc chắn cho bạn.
Nếu bạn có các các dau hieu benh gan trên, cần phải dieu tri benh viem gan ngay nhá bạn, hãy đến phòng khám gan 12 kim mã để được khám gan miễn phí và được các y bác sỹ giỏi, nhiệt tình điều trị cho nhé bạn.