Thứ Ba, 11 tháng 6, 2013

viêm gan c căn bệnh nguy hiểm tới tính mạng con người

Bất kỳ ai nhiễm viêm gan C mạn tính đều là ứng cử viên của liệu pháp kháng virus. Tuy nhiên, với những hiểu biết của chúng ta về nguồn gốc tự nhiên của viêm gan siêu vi C mạn tính, và hiệu quả cũng như tác dụng phụ của liệu pháp kháng virus hiện nay.





Hội nghị phát triển thống nhất NIH khuyến cáo điều trị viêm gan c cho những bệnh nhân có nguy cơ cao tiến đến xơ gan. Ví dụ như những người có tất cả các đặc điểm sau đây :

- ALT tăng hằng định.

- Có thể tìm thấy RNA-HCV.

- Bằng chứng của hoá sợi trên sinh thiết gan.

- Bằng chứng của tổn thương viêm vừa phải và tế bào gan (hoại tử) trên sinh thiết.

Điều này không rõ nếu bệnh nhân có một vài nhưng không có tất cả các tiêu chuẩn này nên được điều trị không.

Do đó, Viện Y tế Quốc gia Mỹ (NIH) thống nhất chủ trương rằng, bệnh nhân không phù hợp với tất cả tiêu chuẩn đưa ra được điều trị trong một chế độ nghiên cứu. Những nhà cố vấn báo cho những người tham gia nghiên cứu, để tin tức có thể lấy được từ kinh nghiệm điều trị những bệnh nhân này. Ví dụ những bệnh nhân có :

- Xét nghiệm gan bình thường cố định và viêm nhẹ trên sinh thiết gan.

- Xơ gan còn bù (không có dấu hiệu suy gan như vàng da, bụng báng, bệnh não, hay xuất huyết).

- Dưới 18 hay trên 65 tuổi.

- Người đồng nhiễm HIV.

Bệnh nhân xơ gan mất bù (dấu hiệu suy gan mạn) chỉ nên được điều trị trong chế độ nghiên cứu. Ngoài ra, họ nên được theo dõi sát, tốt nhất là được ghép gan.

Những người không nên điều trị với liệu pháp kháng virus bao gồm những người đang dùng thuốc lậu hay rượu, đang bị trầm cảm, tế bào máu thấp, bệnh tuyến giáp không điều trị, bệnh tự miễn, và những bệnh lý nghiêm trọng khác (ví dụ bệnh tim có triệu chứng, cao huyết áp không kiểm soát, hay đái tháo đường), đang có thai, hay đang nhận cơ quan ghép đặc (ví dụ thận).

Về cơ bản, việc quyết định đối với điều trị kháng virus ở bệnh nhân viêm gan C nên được thực hiện với cân nhắc cẩn thận về nguy cơ và lợi ích.

Không có nhận xét nào: