Năm 1965, Blumberg và các cộng sự ở Philadelphia đã tìm thấy một loại
kháng thể ở bệnh nhân bị bệnh máu được truyền máu nhiều lần. Kháng thể
này có thể phản ứng với một loại kháng nguyên trong mẫu huyết thanh của
một thổ dân châu Úc nên được gọi là kháng nguyên Au. Sau đó kháng nguyên
này lại được tìm thấy trong huyết thanh của những bệnh nhân bị viêm
gan.
Ngày nay kháng nguyên Au được xác định chính là kháng nguyên bề mặt của
virut viêm gan B (HBsAg). Virut viem gan B (HBV) thuộc họ
Hepadnaviridae, là loại virut hướng gan có cấu trúc DNA. Bệnh cảnh lâm
sàng của nhiễm HBV rất thay đổi. Bệnh có thể biểu hiện viêm gan cấp tính
với những thể nặng dẫn đến tử vong hoặc thể viêm gan mạn dẫn đến xơ gan
và ung thư gan.
Tất cả những trường hợp mang HBsAg mạn tính có tổn thương gan nhẹ hay
không có tổn thương gan thì nguy cơ bị ung thư tế bào gan (HCC) ở nhóm
này cũng cao hơn nhóm HBsAg âm tính từ 15 - 100 lần. Những trường hợp
viêm gan virut B có hiện tượng đột biến tiền nhân, tức là thay đổi axit
amin ở vị trí 1896, nên không có khả năng sản xuất HBeAg, mặc dù vẫn có
hiện tượng nhân lên của virut (HBV DNA cao). Viêm gan virut B mạn là
nguyên nhân hàng đầu của bệnh gan ở nhiều khu vực trên thế giới đặc biệt
ở khu vực châu Á Thái Bình Dương, khoảng hơn 400 triệu người có nguy cơ
dẫn đến xơ gan và HCC. Viêm gan virut B mạn được xác định là phản ứng
viêm, hoại tử ở tế bào gan và bệnh diễn biến kéo dài trong thời gian
trên 6 tháng. Mục đích của điều trị viêm gan virut B mạn là ức chế kéo
dài sự nhân lên của HBV, cải thiện phản ứng viêm hoại tử gan với ALT
bình thường trước khi dẫn đến xơ gan, HCC và chuyển đổi huyết thanh ở
những bệnh nhân HBeAg (+).
Hiện nay có nhiều loại thuốc điều trị viêm gan B mạn. Các thuốc này chia
làm 2 nhóm chính, có thể sử dụng điều trị riêng lẻ hay phối hợp. Các
thuốc được gọi là điều hoà miễn dịch vì chúng tác động lên hệ thống miễn
dịch của cơ thể đối với kháng nguyên của HBV trên bề mặt tế bào gan như
Interferon (IFN)...Nhóm thứ 2 được gọi là các thuốc chống virut, thuốc
này có tác dụng ức chế sự nhân lên của virut, ngăn cản hiện tượng nhiễm
virut lên các tế bào gan bình thường. Các thuốc này không có ảnh hưởng
trực tiếp lên hệ thống điều hoà miễn dịch mà chỉ có ảnh hưởng gián tiếp.chua benh viem gan IFN alfa bắt đầu được sử dụng điều trị viêm gan B mạn từ đầu thập niên
70 của thế kỷ 20, từ đó IFN trở thành phương thức điều trị chủ yếu của
viêm gan virut B mạn và năm 1992 IFN alfa-2b đã được Hiệp hội thuốc và
dược phẩm (FDA) Mỹ chấp thuận trên thế giới. Tuy nhiên có khoảng trên
60% bệnh nhân viêm gan B mạn không đáp ứng hoặc đáp ứng kém với điều trị
IFN, việc điều trị lần 2 cho nhóm bệnh nhân này thường ít tác dụng. Mặt
khác IFN lại có rất nhiều tác dụng phụ buộc các thấy thuốc phải ngừng
điều trị. Sự ra đời của các thuốc nucleoside và tương đồng nucleoside
như lamivudine, adefovir dipivoxil...đã mở ra hướng điều trị mới. Tuy
nhiên muốn đảm bảo thải trừ được hoàn toàn virut, cần phải kéo dài thời
gian điều trị và chính vì thời gian điều trị lâu dài này làm phát sinh
các chủng kháng thuốc. Trước năm 2005, điều trị bệnh nhân viêm gan virut
B mạn tính thường sử dụng Interferon alpha-2b tiêm, uống lamivudine và
adefovir
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét