Chủ Nhật, 18 tháng 8, 2013

Cảnh báo viêm gan Virus B và cách phòng chữa

Cảnh báo viêm gan Virus B và cách phòng chữa, dieu tri benh viem gan

Hiện nay tổ chức y tế Thế giới ước tính có khoảng 400 triệu người mang bệnh viêm gan B mạn tính. Trong đó các nước châu Á có đến 2/3 tổng số người mắc bệnh viêm gan B trên toàn cầu.
Nhiễm Virus B có thể dẫn đến viêm gan mạn tính, xơ gan, ưng thư gan và hậu quả là dẫn đến tử vong làm thiệt hại kinh tế của cả cộng đồng. Để hiểu rõ hơn về bệnh Viêm gan Virus B , tạp chí Y học lâm sàng đã có cuộc trao đổi với Tiến sĩ Trịnh Thị Ngọc- trưởng khoa Truyền nhiễm bệnh viện Bạch Mai.

PV: Thưa TS bệnh viêm gan Virus B là một dạng của bệnh truyền nhiễm có khả năng lây truyền rất nguy hiểm. Vậy, kể từ khi bệnh nhân bị nhiễm Virus Viêm gan B đến giai đoạn cuối có thể kéo dài bao nhiêu năm thưa TS?

TS. Trịnh Thị Ngọc: Khoảng 20-30% bệnh nhân nhiễm viêm gan Virus B từ giai đoạn đầu (bắt đầu nhiễm) đến giai đoạn cuối (xơ gan, ung thư gan) kéo dài khoảng 15- 20 năm. Tuy nhiên tuỳ từng trường hợp, hoàn cảnh của từng bệnh nhân mà khoảng thời gian đó có thể là dài, ngắn khác nhau. Chẳng hạn nếu bệnh nhân mắc viêm gan Virus B đồng thời bị suy giảm miễn dịch, nhiễm HIV, viem gan C, nghiện rượu và một số các bệnh mạn tính khác thì khoảng thời gian đó sẽ rút ngắn. Ngược lại, những bệnh nhân không đồng thời mắc các bệnh nhưu kể trên và có phương pháp điều trị hợp lý thì khoảng thời gian sống của họ sẽ kéo dài hơn.

PV: Bệnh Viêm gan Virus B lây truyền như thế nào? Biểu hiện rõ rệt nhất của người mắc Viêm gan Virus B là gì, thưa TS?

TS. Trịnh Thị Ngọc: viêm gan Virus B lây truyền từ người này sang người khác qua ba con đường như sau; thứ nhất lây từ mẹ sang con. Cách lây này thường xảy ra nhiều ở các nước châu Á nói chung và Việt Nam ta nói riêng. Nếu người mẹ mang viêm gan Virus B có hiện tượng Virus phát triển (virus đang nhân) HBeAg+ hoặc ADNHBV+ thì khả năng họ truyền cho con là rất cao. Cụ thể là đứa trẻ được sinh ra từ người mẹ mang Virus viêm gan B sẽ bị nhiễm tỉ lệ lên tới 80% - 90% nếu người mẹ mang HBeAg+ và ADNHBV+. Tuy nhiên trong một số trường hợp mẹ chỉ mang HbeAg + mà Hbe Ag âm tính và ADNHBV âm tính thì khả năng người mẹ truyền cho con tỉ lệ là 40%. Thứ hai là lây truyền qua đường máu; người bị lây nhiễm viêm gan Virus B qua đường máu có thể xảy ra trong những trường hợp như truyền máu, các chế phẩm qua máu, chạy thận nhân tạo dài ngày, phẫu thuật, tiêm chích ma tuý... Ngoài ra trong một số trường hợp mà đôi khi ta không để ý cũng dễ dàng lây truyền viêm gan Virus B như xăm mắt, xăm môi, xăm người, cạo râu, bàn chải đánh răng...Thứ ba là lây truyền qua đường tình dục. Tuy nhiên, theo thống kê cho thấy số người bị lây truyền viêm gan Virus B theo con đường tình dục chiếm tỉ lệ không cao lắm. Trong đó tỉ lệ nam truyền cho nữ lớn hơn so với tỉ lệ nữ truyền cho nam.


Trong đó tỉ lệ nam truyền cho nữ lớn hơn so với tỉ lệ nữ truyền cho nam (ảnh minh họa)

Về biểu hiện của nhiễm Virus viêm gan B và mắc bệnh viêm gan B rất kín đáo, chỉ có khoảng 1/3 các trường hợp bệnh nhân viêm gan B có biểu hiện lâm sàng: mệt mỏi, tiểu vàng, củng mạc, mật vàng, viêm mạc dưới lưỡi vàng... Còn đa số các trường hợp các triệu chứng không rõ nên người bệnh dễ bỏ qua. Vì không chú ý đến bệnh nên đa số các trường hợp bệnh nhân đến khám đều ở giai đoạn bệnh muộn như: xơ gan, ung thư tế bào gan... nên việc điều trị khó khăn ít hiệu quả.

Khi khám, xét nghiệm nếu men gan của bệnh nhân bình thường, không có hiện tượng nhân lên của Virus thì cũng chưa cần điều trị mà cứ 6 tháng chúng ta khuyên bệnh nhân xét nghiệm chức năng gan một lần để xem men gan có tưng hay không? Khi phát hiện men gan của bệnh nhân tăng thì phải xét nghiệm xem có nhân lên không và điều trị đặc hiệu.

PV: Vậy, xin TS cho biết thuốc điều trị viêm gan Virus B như thế nào? Để phòng tránh tối đa bệnh viêm gan Virus B chúng ta nên áp dụng những biện pháp gì?

TS. Trịnh Thị Ngọc: Hiện nay điều trị viêm gan Virus B có nhiều loại thuốc. Trước tiên là thuốc khôn đặc hiệu mà ta thường gọi là thuốc "bổ gan": Legalon, vitamin nhóm B... Muốn điều trị có hiệu quả chúng ta nên sử dụng những loại thuốc ức chế sự nhân lên của Virus hoặc diẹt Virus. Chẳng hạn Lamivudine (Zeffix), Adefovir (Hepsera), Entercavir (Baraclude), IFN (có thể tiêm 1-3 lần một tuần). Hiện nay các loại thuốc điều trị này đều có mặt ở Việt Nam. Tuy nhiên chúng tôi thấy rằng điều trị viêm gan Virus B mạn tính rất khó khăn, tốn kém tiền của. Chính vì thế, cần phải phát hiện kịp thời, kiên trì điều trị và tuân thủ theo sự chỉ định của bác sĩ mới có hiệu quả. Để phòng tránh đến mức tối đa bệnh Viêm gan Virus B chúng ta nên coi việc tiêm phòng viêm gan Virus B lên hàng đầu. Muốn giải quyết được vấn đề này cần sự quan tâm đúng mức của Bộ Y tế, các cơ quan chức năng. Nếu chúng ta tiêm phòng vacxin viêm gan B tốt sẽ làm giảm tỉ lệ người nhiễm virus viêm gan B, từ đó viêm gan Virus B mạn tính, xơ gan, ung thư gan sẽ giảm đáng kể. Đối với những trẻ được sinh ra từ người mẹ bị nhiễm viêm gan Virus B phải tiêm phòng Vacxin viêm gan B và Hepaig sau vài phút khi đẻ mới có hi vọng trẻ mới không bị nhiễm. Tuy nhiên vấn đề tiêm phòng Vacxin ở Việt Nam còn chưa thực hiện tốt bởi lẽ cộng đồng chưa hiểu rõ vai trò của tiêm phòng Vacxin viêm gan B cũng như sự quan tâm xát xao của các ngành chức năng. Ngoài ra, cán bộ y tế cơ sở tuyên truyền về tác hại của viêm gan Virus B và khuyến khích cộng đồng tiêm phòng cũng là một biện pháp hữu hiệu để giảm thiểu sự gia tăng của Viêm gan Virus B. Cán bộ y tế cơ sở cũng có thể phòng tránh cho nhân dân bằng cách sử dụng các dụng cụ, điều trị can thiệp cho bệnh nhân cần được tiệt trùng, tuyên truyền cho những người bị nhiễm viêm gan Virus B không sử dụng các dụng cụ cá nhân chung với người khác, khi quan hệ tình dục phải dùng bao cao su đúng cách.

PV: Như vậy rõ ràng việc tuyên truyền, vận động tiêm phòng Vacxin viêm gan Virus B nhằm hạn chế sự lây lan của Virus. Vậy, TS đánh giá như thế nào về vai trò của y tế cơ sở trong vấn đề này hiện nay can duoc dieu tri benh viem gan hiệu quả?

TS. Trịnh Thị Ngọc: vai trò của cán bộ y tế cơ sở đối với việc hạn chế sự gia tăng của viêm gan Virus B rất quan trọng. Chính vì thế, cán bộ y tế cơ sở phải thường xuyên tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia tiêm phòng Vacxin nhằm hạn chế lây lan trong cộng đồng đồng thời cũng phải nói rõ lợi ích của vấn đề tiêm phòng đối với sức khoẻ của nhân dân. Bản thân nhân dân cũng phải thấy rõ và quán triệt được chủ trương này của Nhà nước và tích cực tham gia chương trình tiêm phòng vacxin viêm gan B. Nếu không có sự tham gia của tất cả mọi người thì chương trình này sẽ không đáp ứng được nhu cầu mong muốn của chúng ta là giảm tỉ lệ nhiễm virus viêm gan B trong cộng đồng. Vì thế cán bộ y tế thực hiện tốt công tác tuyên truyền vận động nhân dân cách phòng chống viêm gan Virus B sẽ mang lại hiệu quả rất cao.